Top 10 Công ty Vật liệu xây dựng năm 2024
Ngày 01/04/2024, Công ty Cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) chính thức công bố Top 10 Công ty Vật liệu xây dựng năm 2024.
Đây là kết quả nghiên cứu độc lập của Vietnam Report, được xây dựng dựa trên nguyên tắc khoa học và khách quan nhằm ghi nhận và tôn vinh những doanh nghiệp trụ cột của ngành vật liệu xây dựng (VLXD) đã và đang nỗ lực hết mình đạt nhiều thành tựu trong việc cung cấp sản phẩm cho khách hàng, tạo dựng được hình ảnh ấn tượng trong mắt công chúng và nhà đầu tư, thể hiện bản lĩnh vững vàng với năng lực tài chính ổn định, sức chống chịu tốt khi phải đối mặt với khó khăn chồng khó khăn từ sự suy giảm nguồn cung bắt đầu từ năm 2019, hệ lụy của đại dịch cho tới những bất ổn địa chính trị trên thế giới, đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, biến động giá nguyên vật liệu… trong suốt 3 năm vừa qua.
Các doanh nghiệp được lọc ra từ cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp Việt Nam trong các nghiên cứu xếp hạng của Vietnam Report thuộc ngành VLXD với dữ liệu tài chính cập nhật đến ngày 31/12/2023 kết hợp sử dụng phương pháp Media Coding (mã hóa dữ liệu báo chí trên truyền thông), khảo sát đối tượng nghiên cứu và các bên liên quan nhằm đưa ra đánh giá tổng hợp, khách quan và đầy đủ nhất về doanh nghiệp xuyên suốt giai đoạn khó khăn vừa qua, làm nổi bật lên những tên tuổi sau.
Danh sách 1: Top 10 Công ty Vật liệu xây dựng năm 2024
Nguồn: Vietnam Report, Top 10 Công ty VLXD năm 2024, tháng 04/2024
Danh sách 2: Top 5 Công ty Vật liệu xây dựng năm 2024 – Nhóm sản phẩm: Sắt, thép, tôn
Nguồn: Vietnam Report, Top 10 Công ty VLXD năm 2024, tháng 04/2024
Danh sách 3: Top 5 Công ty Vật liệu xây dựng năm 2024 – Nhóm sản phẩm: Gạch, đá ốp lát
Nguồn: Vietnam Report, Top 10 Công ty VLXD năm 2024, tháng 04/2024
Danh sách 4: Top 5 Công ty Vật liệu xây dựng năm 2024 – Nhóm sản phẩm: Cửa-tấm profile-vách ngăn: nhựa, nhôm kính, thạch cao
Nguồn: Vietnam Report, Top 10 Công ty VLXD năm 2024, tháng 04/2024
Bức tranh ngành Vật liệu xây dựng năm 2023: tiếp nối sự ảm đạm
Nằm trong mắt xích cuối của chuỗi giá trị Bất động sản – Xây dựng – VLXD, ngành VLXD liên quan mật thiết đến các ngành tại mắt xích phía trên và nhạy cảm với chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế vĩ mô khi các ngành này chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP. Thị trường VLXD ảm đạm từ cuối năm 2022 ngay sau khi những tín hiệu xấu trên thị trường Bất động sản xuất hiện. Bất chấp những nỗ lực vực dậy thị trường từ các bên liên quan trong năm 2023, thị trường bất động sản vẫn trải qua một năm khó khăn. Nhiều dự án, công trình chậm triển khai, nhu cầu thị trường giảm khiến nhiều doanh nghiệp VLXD tiếp tục một năm kinh doanh kém hiệu quả, tiêu thụ sản phẩm chậm, tồn kho tăng cao, thậm chí một số doanh nghiệp buộc phải dừng nhiều dây chuyền sản xuất.
Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, phần lớn các mặt hàng VLXD đều ghi nhận mức suy giảm so với năm 2022 về cả sản lượng sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu. Cụ thể, sản lượng xi măng sản xuất năm 2023 ước đạt 89,4 triệu tấn, giảm 5,45%; lượng tiêu thụ khoảng 89 triệu tấn, giảm khoảng 6%; trong đó, tiêu dùng nội địa giảm 10% và xuất khẩu gần như đi ngang. Sản lượng gạch ốp lát sản xuất đạt 386,5 triệu m2, giảm 15%; sản lượng tiêu thụ khoảng 291,5 triệu m2, giảm 25%. Sản lượng sản xuất sứ vệ sinh đạt gần 12,5 triệu sản phẩm, giảm 25% so với năm 2022. Vật liệu kính xây dựng sản xuất đạt khoảng 211 triệu m2, giảm khoảng 2% so với năm 2022.
Thống kê kết quả kinh doanh của nhóm công ty đại chúng ngành VLXD được thực hiện bởi Vietnam Report, cả doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp đều giảm trong năm 2023. Về doanh thu, có đến 46,9% số doanh nghiệp có tổng doanh thu giảm dưới 25,0%, đặc biệt tỷ lệ doanh nghiệp có doanh thu giảm sâu trên 25% lên tới 31,6%. Lợi nhuận của các doanh nghiệp lại có gam màu tối hơn nữa khi tỷ lệ doanh nghiệp ghi nhận mức giảm lớn hơn 25,0% tiếp tục gia tăng, trong khi tỷ lệ này của các năm trước cũng đáng báo động. Đáng chú ý, tỷ lệ doanh nghiệp thua lỗ đã tăng 23,8% so với năm 2022. Sự sụt giảm mạnh về doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp cho thấy thị trường đã chững lại sau thời kỳ tăng trưởng nóng ở nửa đầu năm 2022, tiếp nối sự ảm đạm trong suốt năm 2023 và dự báo sẽ khó có bước lội ngược dòng trong nửa đầu năm 2024 theo đánh giá của phần lớn chuyên gia trong ngành tham gia phỏng vấn với Vietnam Report.
Hình 1: Biến động doanh thu, lợi nhuận nhóm công ty đại chúng ngành Vật liệu xây dựng
Nguồn: Vietnam Report, Thống kê từ dữ liệu xếp hạng Top 10 Công ty Vật liệu xây dựng
năm 2024, tháng 03/2024
Giá vật liệu xây dựng vẫn tăng cao dù thị trường ảm đạm. Xét trên chỉ số giá nhà ở và VLXD, giá nhà ở và VLXD có xu hướng tăng, chỉ có hai đợt chỉ số đi xuống vào cuối năm 2021 và giữa năm 2023. Đến tháng 03/2024, giá nhà ở và VLXD đã tăng trung bình 21,0% so với thời kỳ gốc tháng 01/2019. Biến động giá mạnh nhất thuộc về mặt hàng thép xây dựng. Theo Hiệp hội thép Việt Nam (VSA), có thời điểm giá thép lên đến gần 16,0 triệu đồng/tấn trong Q1/2023. Trong Q4/2023, giá thép đã giảm xuống mức 13,5 triệu đồng/tấn, mức thấp nhất trong vòng 3 năm qua và quay trở lại xu hướng tăng trong ba tháng đầu năm 2024. Mặt hàng xi măng sau các đợt tăng giá liên tiếp trong năm 2022 thì hiện nay đang giữ ổn định. Giá xi măng tại khu vực phía Nam có xu hướng cao hơn do chi phí vận chuyển và số lượng nhà máy sản xuất ít hơn. Riêng với vật liệu đắp nền đường các dự án đường cao tốc khu vực phía Nam, do địa hình thấp nên nhu cầu vật liệu đắp nền lớn nhưng nguồn cung lại không thể đáp ứng. Giá VLXD tăng cao ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành của các công trình, khiến giá bất động sản cũng tăng theo. Việc giá vật liệu biến động liên tục cũng gây gián đoạn tiến độ thi công do đội vốn, buộc chủ đầu tư và nhà thầu phải tính toán lại chi phí xây dựng.
Hình 2: Chỉ số giá tiêu dùng, Nhà ở và vật liệu xây dựng giai đoạn tháng 01/2021 đến tháng 03/2024
Nguồn: Tổng cục Thống kê và tính toán của Vietnam Report
Những khó khăn tiếp diễn
Khó khăn tiếp diễn được nhắc đến nhằm nhấn mạnh những khó khăn mà cộng đồng doanh nghiệp VLXD đã đối mặt trong năm 2023 vẫn còn hiện diện, mức độ có thay đổi nhưng vẫn là những khó khăn lớn nhất mà doanh nghiệp đang gặp phải. Đầu tiên, Tình trạng hạn chế tài chính của người mua do kinh tế tăng trưởng chậm ghi nhận mức tăng 14,6% so với năm 2023. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2023 dừng lại ở mức 5,05%, cùng với triển vọng về mức độ phục hồi trong năm 2024 không quá mạnh mẽ cho thấy tổng cầu của nền kinh tế chưa có nhiều cải thiện, hoạt động chi trả cho bất động sản và VLXD giảm rõ rệt. Khi thoát khỏi thời kỳ VLXD “bão giá”, những lo ngại về Biến động giá nguyên vật liệu, VLXD cũng giảm bớt (-30,8%) mặc dù giá VLXD vẫn tiếp diễn xu hướng tăng. Bất cân xứng cung-cầu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến giá VLXD và đã trở thành khó khăn có tỷ lệ tăng lớn nhất (+36,2%).
Đối với thị trường xi măng, các nhà máy đã đầu tư có công suất 117 triệu tấn/năm và có thể sản xuất trên 130 triệu tấn/năm. Trong khi tổng lượng tiêu thụ nội địa chỉ chiếm chưa tới 50,0% công suất thiết kế; nếu tính chung cả lượng xuất khẩu, tổng lượng tiêu thụ mới chỉ dừng lại ở mức 75,0%. Theo Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam, lượng tiêu thụ xi măng tại các quốc gia giai đoạn tăng trưởng nhanh ở mức 1.000 kg/người/năm. Thậm chí, Trung Quốc cũng duy trì nhu cầu xi măng trong một giai đoạn dài khoảng 1.600-1.700 kg/người/năm và hiện nay cũng khoảng 1.200-1.300 kg/người/năm. Số liệu trên cho thấy, lượng tiêu thụ xi măng nội địa đang mức rất thấp đối với quốc gia 100 triệu dân. Lượng dư cung sẽ đẩy áp lực lớn đến kênh xuất khẩu nếu tiêu thụ trong nước chưa thể tăng nhanh trong ngắn hạn. Tuy nhiên, thuế xuất khẩu clinker đã tăng từ 5% lên 10% từ ngày 01/01/2023. Thực tế cho thấy, clinker được sản xuất bằng công nghệ cao, qua nhiều công đoạn với chi phí đầu tư lớn, việc coi xuất khẩu clinker là xuất khẩu nguyên liệu thô cũng ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xi măng tại thị trường quốc tế, nhất là trong bối cảnh dư cung hiện tại.
Đối với thị trường thép, các con số lại cho thấy chiều hướng ngược lại. Dù không thoát khỏi tình cảnh chung là sản lượng sản xuất sụt giảm, nhưng lượng sản xuất lại thấp hơn lượng tiêu thụ trong nước, tức cung đang thấp hơn cầu. Trong năm 2023, Việt Nam xuất khẩu 80 triệu tấn thép nhưng nhập khẩu lên tới 133 triệu tấn, nếu quy ra giá trị, con số thâm hụt cán cân sẽ còn cao hơn nữa. Bởi lẽ, lượng lớn sản phẩm thép nhập khẩu về Việt Nam là thép chế tạo, có giá thành và hàm lượng giá trị cao hơn. Thị trường thép Việt Nam đang bỏ ngỏ một phân khúc vô cùng quan trọng, không chỉ liên quan đến sản xuất VLXD mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành công nghiệp tiêu thụ lượng thép lớn như sản xuất ô tô.
Hình 3: Top 5 khó khăn của ngành Vật liệu xây dựng
Nguồn: Vietnam Report, Tổng hợp Khảo sát các doanh nghiệp VLXD, tháng 02/2023 và tháng 02/2024
Một khó khăn trong thời kỳ dịch bệnh đã quay trở lại là Đứt gãy chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế với tỷ lệ doanh nghiệp lựa chọn tăng 26,2%. Nguyên nhân do căng thẳng địa chính trị, các tàu chở container từ châu Á sang châu Mỹ và châu Âu phải di chuyển xa hơn để tránh các vùng biển nguy hiểm, làm giảm số lượng hàng hóa vận chuyển, đồng thời có thể đẩy giá cước tàu biển lên gấp đôi. Cùng với thuế xuất khẩu áp với một số mặt hàng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường ngặt nghèo tại các thị trường phát triển sẽ trở thành rào cản, khó khăn lớn hơn nữa cho hoạt động xuất khẩu VLXD của Việt Nam.
Ngoài ra, áp lực đối với ngành VLXD của Việt Nam đến từ thị trường Trung Quốc. Đây là một trong những thị trường xuất khẩu VLXD lớn của Việt Nam nhưng ngành bất động sản tại quốc gia này đang trong thời kỳ suy thoái kéo dài, sản xuất công nghiệp dư cung, nền kinh tế xảy ra tình trạng giảm phát. Trước tình cảnh đó, xuất khẩu VLXD của Việt Nam sang Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Trong năm 2023, tổng lượng xi măng và clinker nhập khẩu vào Trung Quốc giảm lần lượt 88,1% và 94,8%. Trong khi hầu hết lượng clinker nhập khẩu đến từ Việt Nam, chiếm 98,6% tổng lượng nhập khẩu. Không dừng lại ở đó, lượng dư cung tại Trung Quốc buộc quốc gia này giảm giá và đẩy mạnh xuất khẩu. Trung Quốc tiến xa hơn trong cuộc đua cạnh tranh không chỉ tại các thị trường xuất khẩu khác của Việt Nam mà còn ngay tại thị trường trong nước.
Để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế đất nước nói chung trong thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách về tài chính, ngân hàng (trái phiếu doanh nghiệp, lãi suất điều hành, điều kiện cho vay…), các giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển. Tuy nhiên trên thực tế đối với hoạt động của ngành VLXD vẫn chưa mang lại hiệu quả như kỳ vọng. Như đã phân tích ở trên, khó khăn lớn nhất đối với ngành VLXD hiện nay vẫn là đầu ra cho sản phẩm giảm, nếu doanh nghiệp cứ sản xuất để sản phẩm tồn kho thì doanh nghiệp sẽ đi đến phá sản, do đó có “hạ lãi suất, mở rộng điều kiện cho vay” thì doanh nghiệp vẫn khó khăn. Hơn nữa, theo chia sẻ của một số chuyên gia trong ngành với Vietnam Report, chính sách đã được Chính phủ ban hành chưa thật sự đi vào cuộc sống, một số doanh nghiệp cần vay vốn vẫn không tiếp cận được vì không được thế chấp bằng sản phẩm được hình thành từ nguồn vốn vay là sản phẩm vật liệu xây dựng.
Triển vọng năm 2024: chưa thể xuất hiện cú hích
Khảo sát doanh nghiệp VLXD của Vietnam Report cho thấy năm vừa qua, năm động lực lớn nhất đóng góp vào kết quả kinh doanh là Uy tín, thương hiệu của công ty trên thị trường (92,3%); Ứng dụng thành công chuyển đổi số trong quản lý và vận hành (61,5%); Phát triển các dòng sản phẩm mới, đa dạng hóa hoạt động kinh doanh (53,8%); Rà soát, cắt giảm và sử dụng chi phí hiệu quả (46,2%); Sẵn đội ngũ nhân sự giỏi về chuyên môn, giàu kinh nghiệm, kỷ luật cao (46,2%). Top 5 động lực lớn nhất đều thuộc yếu tố bên trong doanh nghiệp. Trong số ba động lực bên ngoài, Đầu tư công được đẩy mạnh, cơ sở hạ tầng được cải thiện trở thành động lực lớn nhất đóng góp vào kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp VLXD trong 12 tháng tới với tỷ lệ 65,0% doanh nghiệp tham gia khảo sát lựa chọn.
“Lực đẩy” lớn cho thị trường VLXD đến từ những nỗ lực thúc đẩy đầu tư công. Bởi từ những tháng cuối năm 2023, Chính phủ đã và đang quyết liệt chỉ đạo thúc đẩy đầu tư công. Nhiều dự án hạ tầng giao thông trọng điểm được triển khai, cùng việc thông qua quy hoạch nhiều dự án hạ tầng công nghiệp, đô thị. Với những dự án đầu tư công lớn đã và đang triển khai như các đường vành đai, cao tốc Bắc-Nam, sân bay Long Thành sẽ giúp cho ngành xây dựng hạ tầng được hưởng lợi lớn trực tiếp trong năm 2024. Bộ Giao thông Vận tải chỉ đạo các chủ đầu tư tăng tỷ lệ sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép đối với các dự án đường bộ cao tốc đang trong giai đoạn thiết kế, đặc biệt là ở những vùng có yêu cầu thoát lũ, vùng đất yếu và những vùng thiếu vật liệu đắp nền đường. Tuy nhiên, nhu cầu VLXD từ đầu tư công chưa thể bù đắp được lượng dư cung VLXD và có thể dư hơn nữa nếu các doanh nghiệp hoạt động tối đa công suất thiết kế. Vì vậy, bản thân doanh nghiệp cũng cần mở rộng thị trường nội địa, tìm kiếm những thị trường xuất khẩu mới để tăng tiêu thụ sản phẩm và vượt qua được giai đoạn khó khăn hiện nay.
Hình 4: Top 8 động lực đóng góp cho tăng trưởng của doanh nghiệp VLXD
Nguồn: Vietnam Report, Tổng hợp Khảo sát các doanh nghiệp VLXD, tháng 02/2023 và tháng 02/2024
Những tín hiệu phục hồi cho thị trường VLXD còn khá mờ nhạt. Trước hết là sự phụ thuộc của ngành VLXD vào bất động sản còn quá lớn, trong khi ngành bất động sản vẫn còn khó khăn và phục hồi ở mức độ chậm, chưa thể trở thành cú hích cho thị trường VLXD lội ngược dòng trong ngắn hạn. Chỉ khi nào bước qua giai đoạn khó khăn của chu kỳ kinh tế, các điểm nghẽn trên thị trường được tháo gỡ, nguồn cung bất động sản tăng trở lại hứa hẹn là thời kỳ phát triển mạnh mẽ và ổn định của ngành VLXD.
Đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), những tín hiệu tích cực về ổn định chính trị, môi trường đầu tư tốt, cũng như các cam kết của nhà đầu tư nước ngoài, nguồn vốn FDI kỳ vọng sẽ tiếp tục được đổ về, tạo đà bứt phá cho thị trường nội địa. Tuy nhiên, kể cả khi dòng vốn này thành hiện thực, thì hoạt động triển khai các dự án cũng phải đến giữa năm sau mới sôi động. Cũng có nghĩa là, trong ngắn hạn, có rất ít tác động đến thị trường VLXD.
Bên cạnh đó, việc Quốc hội chính thức thông qua các dự thảo luật sửa đổi, bổ sung liên quan đến bất động sản như Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản cùng với những nghị quyết, nghị định, thông tư tháo gỡ khó khăn, sẽ có tác động tích cực đến khả năng phục hồi và tăng trưởng của thị trường bất động sản và từ đó đưa thị trường VLXD bật tăng trở lại.
Bước tiếp theo trên con đường xanh hóa ngành Vật liệu xây dựng
Các ngành tiêu biểu của lĩnh vực VLXD như xi măng, thép, sứ vệ sinh, kính xây dựng, gạch ốp lát đều tiêu thụ lượng lớn tài nguyên thiên nhiên và năng lượng trong quá trình sản xuất. Xanh hóa ngành VLXD sẽ là con đường tất yếu mà các doanh nghiệp phải lựa chọn nhằm hạn chế phụ thuộc vào tài nguyên khan hiếm, bảo vệ môi trường và đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững trên thị trường.
Thời gian qua khi giá năng lượng như than đá, điện, khí đốt đều tăng cao, yếu tố chi phí này đã thúc đẩy các doanh nghiệp nhận thực tốt hơn về phát triển bền vững, thực thi và đáp ứng tiêu chí đánh giá tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG). Theo khảo sát của Vietnam Report, 17,5% số doanh nghiệp đang ở giai đoạn lập kế hoạch; 59,3% số doanh nghiệp đã lập kế hoạch và triển khai một phần cam kết ESG; 23,2% số doanh nghiệp còn lại đã lập kế hoạch và triển khai toàn diện cam kết ESG. Theo đó, trong ba yếu số E-S-G, yếu tố G (Governance - Quản trị doanh nghiệp) đang được các doanh nghiệp ưu tiên thực hiện với tỷ lệ 41,1% số doanh nghiệp lựa chọn; theo sau là hai yếu tố E (Environmental - Môi trường) và S (Social - Xã hội) với tỷ lệ lần lượt 36,8% và 22,1%.
Hình 5: Tình hình cam kết ESG của doanh nghiệp ngành VLXD
Nguồn: Vietnam Report, Tổng hợp Khảo sát các doanh nghiệp VLXD, tháng 02/2024
Việc thực hành ESG hay những cam kết về phát triển bền vững không còn là lựa chọn của doanh nghiệp mà đã trở thành bắt buộc khi EU đã áp dụng thuế phát thải carbon theo Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Cơ chế này ban đầu sẽ áp dụng cho các ngành phát thải cao nhất có nguy cơ rò rỉ cao nhất – như sắt thép, xi măng, nhôm, phân bón, hydro, điện – và sẽ được mở rộng sang các ngành khác theo lộ trình. Là đối tác đứng thứ 11 về hàng hóa nhập khẩu vào EU, Việt Nam hiện có bốn nhóm hàng hóa xuất khẩu chủ lực sang thị trường EU là nhôm, thép, xi măng và phân bón. Đặc biệt, riêng các sản phẩm từ sắt thép chiếm 96% giá trị của bốn mặt hàng xuất khẩu này. Thực hiện cơ chế CBAM, trong dài hạn, sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các doanh nghiệp Việt có nhu cầu xuất khẩu sản phẩm sang thị trường EU.
Ngay từ bây giờ để nâng cao khả năng cạnh tranh toàn diện theo chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự điều chỉnh trong chiến lược kinh doanh. Thách thức lớn nhất hiện nay đó là Việt Nam chưa có khung hành lang pháp lý về xây dựng cơ chế định giá carbon rõ ràng nên doanh nghiệp sản xuất khó xác định phải trả thuế, phí bao nhiêu trên mỗi tấn khí CO2. Trong khi đó, việc xác định thuế, phí khí thải sẽ phải tính đủ thuế, phí khí CO2 trực tiếp và gián tiếp. Sự cạnh tranh càng khốc liệt hơn nếu như các doanh nghiệp trong nước chưa thực hiện đầu tư lắp đặt các công nghệ thu hồi, giảm phát thải mà vẫn còn sử dụng nhiên liệu truyền thống (thải nhiều khí CO2 có thuế, hoặc phí khí thải carbon cao hơn), dẫn tới chi phí cho sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU sẽ tăng lên.
Bên cạnh đó, những cơ hội kinh doanh mới cũng đang mở ra. Bởi có thể trong vài năm tới, nhiều quốc gia khác như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… cũng sẽ áp dụng cơ chế thu thuế khí CO2 đối với hàng nhập khẩu. Như vậy, phạm vi ảnh hưởng tới doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam tới các thị trường trọng điểm trên thế giới sẽ rộng hơn và thị trường mua bán tín chỉ carbon càng sôi động, cũng như cơ hội kinh doanh thành công cho dự án thu giữ, sử dụng tuần hoàn và lưu trữ khí thải carbon (CCUS) cũng sẽ lớn hơn. Do vậy, việc sớm xây dựng và ban hành khung pháp lý về áp dụng cơ chế định giá carbon là cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam điều chỉnh chiến lược kinh doanh, thay thế dần năng lượng truyền thống bằng năng lượng sạch và áp dụng các công nghệ thu hồi, giảm thiểu khí thải CO2.
Cơ chế CBAM của EU một lần nữa cũng cho thấy những quy định, tiêu chí ngày càng chặt chẽ hơn trên phạm vi toàn cầu nhằm gắn chặt hoạt động kinh tế, thương mại quốc tế với vấn đề bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Mặc dù quá trình chuyển đổi xanh của EU tạo ra lộ trình từng bước để doanh nghiệp có thể dần thích ứng, nhưng quỹ thời gian không còn nhiều khi có những quy định sẽ áp dụng ngay từ năm 2024 hoặc năm 2025. Vì thế, các doanh nghiệp không nên chờ đợi đến khi EU bắt đầu áp dụng, mới gấp rút ứng phó mà ngay từ bây giờ nên chủ động chuyển đổi sang sản xuất xanh; cần đưa ra lộ trình cụ thể, huy động và tìm kiếm nguồn lực, tìm kiếm sự hỗ trợ của các cơ quan liên quan nhằm đáp ứng các yêu cầu của CBAM.
Hoạt động trên truyền thông của doanh nghiệp Vật liệu xây dựng
Trong bối cảnh thị trường VLXD tiếp tục trải qua giai đoạn khó khăn, xây dựng uy tín doanh nghiệp và công tác truyền thông trở nên vô cùng quan trọng để tạo dựng lại hình ảnh và niềm tin trong mắt khách hàng, nhà đầu tư và cộng đồng doanh nghiệp. Mạng xã hội, các trang báo, tạp chí là kênh dẫn truyền tin tức nhanh chóng tới khách hàng tiềm năng, là nơi để các doanh nghiệp truyền thông rộng rãi những sản phẩm mới, chính sách bán hàng cùng những giải thưởng, thành tựu mà những doanh nghiệp uy tín xứng đáng được vinh danh.
Nhằm đưa ra những đánh giá khách quan, cập nhật nhất về hoạt động trên truyền thông của doanh nghiệp, Vietnam Report phân tích dữ liệu mã hóa theo phương pháp Media Coding, trên các đầu báo, kênh truyền thông có ảnh hưởng, trong giai đoạn từ tháng 02/2023 đến hết tháng 01/2024. Kết quả nghiên cứu cho thấy, 61,5% doanh nghiệp nằm trong danh sách nghiên cứu đạt ngưỡng hiệu quả về độ da dạng hình ảnh trên truyền thông với 10/24 nhóm chủ đề bao phủ, dẫn đầu là Hòa Phát, Vicostone, Viglacera, Tiền Phong và Hoa Sen.
Hình 6: Top 5 nhóm chủ đề về ngành VLXD thu hút truyền thông
Nguồn: Vietnam Report, Dữ liệu Media Coding các doanh nghiệp VLXD từ tháng 02/2021 đến hết tháng 01/2024
Top 5 chủ đề được nhắc đến nhiều nhất trong năm nay bao gồm Tài chính/ Kết quả kinh doanh (20,9%); Cổ phiếu, thị trường chứng khoán (18,1%); Hình ảnh/ PR/ Scandal (10,9%); Sản phẩm, dịch vụ (9,4%) và Chính sách quản lý (6,1%). Trong đó, chủ đề Tài chính/ Kết quả kinh doanh duy trì tỷ trọng thông tin nhiều nhất trong hai năm qua. Những khó khăn trên thị trường, thiếu hụt dòng tiền, kết quả kinh doanh giảm sút đóng góp đáng kể thông tin cho nhóm chủ đề này. Sự góp mặt của các ông lớn trên thị trường chứng khoán trong các ngành thép, xi măng, gạch ốp lát, tiếp tục duy trì nhóm chủ đề Cổ phiếu/ Thị trường chứng khoán trong ở vị trí thứ hai. Tỷ lệ tin tức của top 4 nhóm chủ đề thu nhất trên truyền thông đều có sự sụt giảm trong trong giai đoạn quan sát gần nhất. Dẫu phát triển bền vững là điều tất yếu, nhưng những khó khăn hiện tại đã đưa Chính sách quản lý có mặt trong top 5 nhóm chủ đề thu hút truyền thông năm 2024, thay cho nhóm chủ đề Xã hội/ Trách nhiệm xã hội.
Hình 7: Diễn biến tin tích cực - tiêu cực theo tháng giai đoạn từ tháng 02/2021 đến tháng 01/2024
Nguồn: Vietnam Report, Dữ liệu Media Coding các doanh nghiệp VLXD từ tháng 02/2021 đến hết tháng 01/2024
Về chất lượng thông tin, ngành VLXD vẫn chưa thoát khỏi làn sóng tin tiêu cực từ cuối năm 2022 đến nay, hầu hết các tháng đều duy trì tỷ lệ tin tiêu cực trên 10% lượng tin mã hóa trong tháng, ngoại trừ tháng 11/2023. Đặc biệt trong hai tháng đầu năm 2023, lượng tin tiêu cực vượt lượng tin tích cực, đây cũng là thời điểm thị trường VLXD khó khăn nhất. Lượng tin tích cực có xu hướng tăng trong năm 2023, nhưng vào cuối năm 2023 và đầu năm 2024, tỷ lệ tin tích cực quay đầu giảm mạnh, đây cũng là thời điểm các doanh nghiệp công bố kết kinh doanh không mấy khả quan.
Nhìn chung, ngành VLXD nằm trong mắt xích cuối của chuỗi giá trị Bất động sản – Xây dựng – VLXD, sẽ khó có cú hích cho sự tăng trưởng trong năm 2024 khi những vướng mắc thị trường bất động sản vẫn chưa được tháo gỡ hoàn hoàn. Dẫu vậy, ngành VLXD vẫn có những điểm sáng đến từ đầu tư công, thu hút dòng vốn FDI, sự nhận thức về môi trường và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ngày càng tăng, đáp ứng được tiêu chuẩn của các thị trường phát triển… sẽ đặt ra kỳ vọng lạc quan cho ngành trong tương lai.
Vietnam Report