Tin tức

Trang chủ » » Top 50 Công ty Đại chúng uy tín và hiệu quả năm 2024

Top 50 Công ty Đại chúng uy tín và hiệu quả năm 2024

22/05/2024

Chuyên mục: Tin tức In trang

Ngày 22/5/2024, Công ty Cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) chính thức công bố Bảng xếp hạng VIX50 – Top 50 Công ty Đại chúng uy tín và hiệu quả năm 2024.

Đây là kết quả nghiên cứu khách quan, khoa học và độc lập của Vietnam Report, được công bố chính thức trên các phương tiện truyền thông trong và ngoài nước.

Danh sách Top 10 của Bảng xếp hạng Top 50 Công ty Đại chúng uy tín và hiệu quả năm 2024

Nguồn: Vietnam Report, Top 50 Công ty Đại chúng uy tín và hiệu quả, tháng 5/2024

Dấu ấn thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2023-2024

Với độ nhạy cao trước các thông tin về chính sách tiền tệ cũng như những biến động trong và ngoài nước, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam diễn biến giằng co trong suốt năm 2023, song nhìn chung, xu hướng chính là hồi phục. Trong khi đà giảm mạnh của mặt bằng lãi suất cùng chính sách hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn của Chính phủ được xác định là yếu tố nâng đỡ chính cho thị trường thì sự suy yếu của kinh tế vĩ mô, xung đột địa chính trị bùng lên tại nhiều khu vực trên thế giới, diễn biến bán ròng của khối ngoại và lợi nhuận sụt giảm mạnh của các doanh nghiệp lại khiến thị trường “rung lắc” với những đợt điều chỉnh mạnh.

Dưới tác động từ các yếu tố trái chiều, thị trường vận động phân hóa theo bốn giai đoạn, phản ánh rõ nét qua nhịp dao động của chỉ số VN-Index. Sau giai đoạn tích lũy, trầm lắng trong những tháng đầu năm, TTCK chuyển pha tích cực, “nóng” dần từ đầu tháng 5 cho tới giữa quý 3 nhờ thông tin tạm dừng nâng lãi suất của FED và 4 lần cắt giảm lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). VN-Index ghi nhận mức đóng cửa cao nhất trong năm 2023 là 1.245,5 điểm vào ngày 06/9. Thanh khoản thị trường thời gian này cũng cải thiện đáng kể, đánh dấu các phiên có giá trị giao dịch lớn nhất trong năm. Tuy nhiên, từ cuối quý 3 – giữa quý 4 năm 2023, khi NHNN hút tiền qua kênh tín phiếu để ổn định tỷ giá, khối ngoại tiếp tục duy trì động thái bán ròng và nền kinh tế phục hồi chậm hơn kỳ vọng, VN-Index đã bước vào đà giảm, lùi về gần mốc 1.000 điểm vào cuối tháng 10. Trong 2 tháng cuối năm, thị trường trở lại nhịp hồi phục. Dù chưa đủ để về đỉnh cũ nhưng đã kịp đưa chỉ số VN-Index lên 1.129,93 điểm vào kết phiên ngày 29/12, tăng 12,2% so với cuối năm 2022. Tuy nhiên, thanh khoản thị trường trong năm lại giảm sút với tổng giá trị giao dịch bình quân trên ba sàn chỉ đạt 17.630 tỷ đồng/phiên.

Hình 1: Diễn biến VN-Index và giá trị giao dịch TTCK trong năm 2023 và 4 tháng đầu năm 2024

Nguồn: Vietnam Report tổng hợp

Năm 2023 cũng đánh dấu nhiều điểm nhấn đáng chú ý với TTCK Việt. Đầu tiên là (1) Sự gia tăng về quy mô của TTCK khi tổng vốn hóa thị trường đến hết năm đạt hơn 240 tỷ USD, tương đương 56,4% GDP. (2) Số lượng tài khoản mở mới tiếp tục gia tăng khi mặt bằng lãi suất thấp và kênh đầu tư chứng khoán dần hấp dẫn và phổ cập hơn với nhiều tầng lớp nhà đầu tư – đặc biệt là thế hệ trẻ. Năm 2023, số lượng tài khoản của nhà đầu tư trong nước tăng lên mức 7,2 triệu tài khoản chứng khoán cá nhân, tương đương khoảng 7% dân số. Liên quan đến tài khoản giao dịch, năm qua cũng chứng kiến Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) hoàn thành việc làm sạch dữ liệu người giao dịch chứng khoán trong tháng 11, loại bỏ dữ liệu sai, trùng lặp hoặc thông tin ảo nhằm thanh lọc, phát triển TTCK theo chiều sâu và chất lượng. Bên cạnh đó, dòng tiền trong nước là điểm tựa vững chắc giúp TTCK Việt Nam đứng vững trước áp lực bán ròng của khối ngoại trong năm qua khi nhà đầu tư cá nhân trong nước vẫn chiếm nhiều giá trị giao dịch nhất trên toàn thị trường với tỷ lệ 88,3%. (3) Hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) ghi nhận sự cải thiện kể từ sau khi Nghị định số 08 sửa đổi Nghị định 65 có hiệu lực từ 05/3/2023 và hệ thống giao dịch TPDN riêng lẻ tập trung đầu tiên của Việt Nam đi vào hoạt động từ ngày 19/7/2023. Theo Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA), tổng giá trị TPDN phát hành đạt 333.988 tỷ đồng, tăng 37,8% so với năm 2022. Nhìn chung, sau những bước tiến trên công cuộc thanh lọc, làm minh bạch thị trường, hiện nay, số liệu TTCK được đánh giá sát hơn với thực tế, không còn ghi nhận hiện tượng tăng trưởng nóng như trước.

Với đà hồi phục từ 2 tháng cuối năm ngoái, TTCK có khởi đầu tích cực trong quý đầu năm 2024. Môi trường lãi suất thấp tiếp tục duy trì bên cạnh những tín hiệu khả quan hơn ở nhiều lĩnh vực: xuất nhập khẩu, FDI, đầu tư công… và những động thái quyết liệt của cơ quan quản lý trong việc tháo gỡ những nút thắt hướng đến mục tiêu nâng hạng TTCK Việt Nam vào năm 2025 đã tạo sự hưng phấn cho thị trường. Sau 5 tháng đi lên liên tiếp, VN-Index đạt đỉnh vào cuối tháng 3 (chinh phục mốc 1.290 điểm) và thiết lập mặt bằng thanh khoản vượt 30 nghìn tỷ đồng, thị trường sau đó đã chuyển sang trạng thái diễn biến giằng co quyết liệt và điều chỉnh giảm khi áp lực bán hiện diện thường xuyên trong nửa đầu tháng 4, đi kèm với sự sụt giảm mạnh về giá trị giao dịch. Trong bối cảnh tâm lý thị trường bị tác động bởi lo ngại Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) trì hoãn giảm lãi suất khi lạm phát tại Mỹ chưa hạ nhiệt đủ như kỳ vọng, khối ngoại rút ròng, biến động tăng của tỷ giá đi kèm các biện pháp can thiệp của NHNN, căng thẳng địa chính trị leo thang và rủi ro an ninh mạng gia tăng, TTCK Việt Nam có nhịp điều chỉnh mạnh trong tháng, sau đó phục hồi trong tuần cuối tháng 4 và đầu tháng 5.

Nhận diện xu hướng và triển vọng TTCK

Kết quả khảo sát của Vietnam Report cho thấy, theo góc nhìn của các doanh nghiệp đại chúng, năm 2024 vẫn là “vùng giao tranh” giữa các nhịp điều chỉnh và phục hồi của thị trường. Có tới 88,9% số doanh nghiệp đánh giá diễn biến tăng, giảm đan xen là trạng thái chủ đạo xuyên suốt năm. Dù có nền tảng hỗ trợ từ (1) mặt bằng lãi suất thấp - thúc đẩy nhiều người gia nhập thị trường và tạo ra lực cầu tích cực giúp TTCK không giảm quá sâu, (2) kinh tế vĩ mô và lợi nhuận doanh nghiệp được kỳ vọng qua đáy và bước vào chu kỳ tăng trưởng tích cực và (3) tâm lý tích cực đối với tín hiệu lạc quan về khả năng nâng hạng từ FTSE, câu chuyện của TTCK năm 2024 vẫn phụ thuộc vào nhiều biến số cần theo dõi như (1) chính sách tiền tệ của FED, (2) thanh khoản hệ thống và thị trường TPDN, (3) diễn biến dòng vốn đầu tư của khối ngoại, (4) biến động tỷ giá và giá vàng (khi giá của kim loại quý này liên tục lập đỉnh phân tán sự quan tâm đến các kênh đầu tư khác).

Để phác thảo bức tranh thị trường và xây dựng những định hướng rõ ràng nhằm vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội, xây dựng thành công lâu dài và bền vững, một số yếu tố có thể tạo ra những ảnh hưởng lớn trên TTCK Việt Nam trong năm nay cũng như chiều hướng tác động của chúng đã được chỉ ra trong khảo sát các chuyên gia và doanh nghiệp của Vietnam Report. Trong đó, việc UBCKNN triển khai các giải pháp thúc đẩy quá trình nâng hạng TTCK bao gồm cải thiện hệ thống pháp lý, nâng cao tính minh bạch và chuyên nghiệp hóa thị trường, giúp thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao vị thế của TTCK Việt Nam đang là trọng tâm chú ý khi đã vươn lên ở vị trí số 1 trong số các yếu tố ảnh hưởng, với tỷ lệ doanh nghiệp lựa chọn là 77,8%, đồng thời cũng là yếu tố được kỳ vọng có tác động tích cực nhất đối với TTCK theo bình chọn của 66,7% số doanh nghiệp.

Hình 2: Các yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến TTCK năm 2024 từ góc nhìn của các doanh nghiệp đại chúng

Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát doanh nghiệp đại chúng, tháng 4-5/2024

Lãi suất ngân hàng

Chu kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ của nhiều ngân hàng trung ương lớn trên thế giới được kỳ vọng đã đến chặng cuối, do đó, diễn biến tiếp theo của mặt bằng lãi suất sẽ bị ảnh hưởng đáng kể bởi diễn biến chính sách tiền tệ của FED. Nếu chính sách tiền tệ đảo chiều tại FED, điều này sẽ giúp giảm sức ép tỷ giá, qua đó NHNN sẽ có thêm dư địa để duy trì chính sách nới lỏng. Môi trường thanh khoản dư thừa, lãi suất tiền gửi thấp có thể khiến dòng tiền nhàn rỗi chảy vào các kênh đầu tư khác, trong đó có chứng khoán, để tìm kiếm suất sinh lợi cao hơn.

Trong tháng 4/2024, sau biện pháp can thiệp để kiểm soát tỷ giá của NHNN, lãi suất huy động đã gia tăng từ vùng đáy. Tuy nhiên, giữa bối cảnh tăng trưởng tín dụng vẫn chưa cải thiện đáng kể, mức thanh khoản hệ thống vẫn còn khá dồi dào và chênh lệch lãi suất VND/USD hiện vẫn âm, theo đánh giá của chuyên gia và doanh nghiệp trên sàn, định hướng của chính sách tiền tệ Việt Nam nhiều khả năng vẫn giữ nguyên trong năm nay và lãi suất sẽ có thể gia tăng nhẹ nhưng vẫn ở mức thấp.

Lợi nhuận doanh nghiệp

Câu chuyện của TTCK năm 2024 phụ thuộc vào yếu tố tiên quyết là sự phục hồi lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế của toàn thị trường tiếp tục phục hồi trong Quý 1/2024 với mức tăng 6,5% so với cùng kỳ và tăng 4,1% so với quý trước. Đây cũng là quý thứ hai liên tiếp ghi nhận lợi nhuận tăng trưởng dương, kéo mặt bằng lợi nhuận lên mức cao nhất trong 7 quý (chỉ thấp hơn hai quý đầu năm 2022). Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp có sự cải thiện ở hầu hết các nhóm ngành trong quý đầu năm. Tuy nhiên, tốc độ phục hồi chung đang chậm lại so với Quý 4/2023 với sự mờ dần của hiệu ứng mức nền thấp – hay nói cách khác, nền so sánh cùng kỳ cao dần lên. Cụ thể, tổng lợi nhuận sau thuế của 787 doanh nghiệp niêm yết trong quý đầu năm nay ghi nhận mức tăng trưởng 14,8% so với cùng kỳ, thấp hơn so với mức tăng trưởng 48,6% trong Quý 4/2023. Về cơ bản, lợi nhuận doanh nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán khi ảnh hưởng trực tiếp đến giá cổ phiếu, tâm lý nhà đầu tư, định giá cổ phiếu, chính sách cổ tức, quyết định đầu tư của doanh nghiệp và có thể tạo ra các tác động lan tỏa đến ngành công nghiệp và thị trường rộng lớn hơn. Do đó, để có nền tảng vững chắc cho xu hướng tăng bền vững của TTCK, tăng trưởng lợi nhuận phục hồi bền vững trên diện rộng trong các quý tiếp theo là điều cần thiết.

Diễn biến thanh khoản của thị trường trái phiếu

Diễn biến thanh khoản của thị trường trái phiếu có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường chứng khoán ảnh hưởng đến chi phí vay vốn, dòng vốn đầu tư, tâm lý nhà đầu tư, đánh giá rủi ro và khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp và nhà đầu tư. Sự biến động của thị trường trái phiếu có thể tạo ra những tác động lan tỏa đến thị trường chứng khoán, ảnh hưởng đến giá cả và hoạt động giao dịch. Đầu năm 2024, kể từ khi các quy định nới lỏng điều kiện phát hành và tiêu chuẩn nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp của Nghị định 08 hết hiệu lực từ đầu năm, hoạt động phát hành trái phiếu diễn ra có phần ảm đạm hơn so với 2 quý cuối năm 2023. Trong khi đó, sau hoạt động đàm phán gia hạn kỳ hạn trái phiếu diễn ra trong năm ngoái, thời gian đáo hạn điều chỉnh phần lớn kéo dài thêm đã đẩy lùi áp lực trả nợ sang năm 2024, 2025 và 2026. Đặc biệt, thời điểm năm 2024 sẽ là thời điểm quan trọng đối với thị trường trái phiếu khi áp lực đáo hạn rất lớn vào tháng 12. Mặt khác, thời gian phân phối của từng đợt phát hành, quy định về kết quả xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu, quy định về việc xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp bắt đầu được thực hiện trở lại kể từ năm 2024 cũng là vấn đề quan trọng cần lưu ý.

Hình 3: Giá trị trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn

Nguồn: VBMA

Tốc độ tăng trưởng kinh tế

Theo kết quả khảo sát được Vietnam Report tiến hành vào tháng 4-5 năm nay, phần lớn lãnh đạo doanh nghiệp vẫn đưa ra quan điểm tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2024 sẽ dao động trong khoảng 5,0-6,0%, với trọng tâm chính là mức 5,0-5,5%. Với rào cản lớn từ bối cảnh kinh tế thế giới chậm lại, nền kinh tế Việt Nam năm 2024 xác định đối diện với nhiều khó khăn song vẫn có cơ hội cho sự cải thiện khi được kỳ vọng là “vùng đệm” mở đường cho sự thay đổi của các năm tiếp theo. Tất nhiên, kịch bản tăng tốc một cách chóng vánh sẽ khó xảy ra. Động lực và thời cơ mới dẫn dắt nỗ lực phục hồi của nền kinh tế nói chung sẽ song hành rủi ro và thách thức tiềm ẩn.

Trong tháng 4, Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam của S&P Global công bố đã tăng trở lại lên trên ngưỡng 50. Với chính sách tài khóa mở rộng, và nhiều chính sách tháo gỡ khó khăn cho các lĩnh vực như y tế, bất động sản, thị trường vốn, du dịch, đầu tư công…, các động lực tăng trưởng truyền thống tương đối ổn định, dòng vốn FDI tiếp tục đổ bộ mạnh mẽ. Ngoài ra, Việt Nam còn chứng kiến cơ hội đến từ xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng và dòng vốn đầu tư toàn cầu, sau những nỗ lực nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược dựa trên nền tảng vĩ mô ổn định. Ở chiều ngược lại, nền kinh tế cũng cần thận trọng trước tình trạng số doanh nghiệp rời thị trường lớn hơn số doanh nghiệp gia nhập thị trường, cầu tiêu dùng trong nước 4 tháng vẫn tăng thấp hơn cùng kỳ năm 2023 và giai đoạn 2015 - 2019 cũng như áp lực lạm phát. Sau 4 tháng đầu năm, CPI bình quân tăng 3,93% so với cùng kỳ, gần cận dưới của mục tiêu cả năm là 4 - 4,5% trong khi lạm phát đang chịu tác động của biến động giá dầu, lương thực, chất bán dẫn, chi phí vận tải thế giới...

Về cơ bản, sự tăng trưởng kinh tế tạo ra một vòng tuần hoàn tích cực giữa lợi nhuận doanh nghiệp, niềm tin của nhà đầu tư và hoạt động của TTCK. Do đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới sẽ là yếu tố cần đặc biệt chú trọng để năm bắt nhịp dao động trên TTCK.

Tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái đóng vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, khả năng cạnh tranh và rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp. Áp lực về tỷ giá nhích dần trong những tháng đầu năm và rõ rệt trong tháng 4, gây sức ép lên lạm phát và lãi suất, áp lực lên doanh nghiệp vay nợ, thanh toán bằng đồng USD và tác động đến dòng vốn ngoại trên thị trường. Trước sự gia tăng sức nóng của tỷ giá, NHNN đã can thiệp thông qua kết hợp kênh phát hành tín phiếu - điều hành thị trường mở linh hoạt nhằm điều tiết lượng tiền trong lưu thông, tăng lãi suất mua kỳ hạn và bán ngoại tệ từ dự trữ ngoại hối để cân đối nguồn cung và giá ngoại tệ nhằm ổn định tỷ giá. Ngoài ra, để ứng phó với biến động khó lường của tỷ giá, NHNN đã dự thảo sửa đổi Thông tư 02/2021/TT-NHNN về tỷ giá kỳ hạn USD/VND nhằm tạo ra mức độ linh hoạt để chủ động hơn trong việc đưa ra giá bán USD kỳ hạn nhằm can thiệp thị trường ngoại hối hiệu quả hơn. Sau hàng loạt biện pháp, tính đến ngày 16/5, tỷ giá trung tâm ở mức 24.240 VND/USD. Dù đã có dịu hơn so với giai đoạn tháng 4/2024, tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, câu chuyện tỷ giá vẫn còn yếu tố tác động từ khả năng neo lãi suất ở mức cao của FED, do đó, vẫn đang là ẩn số cần được theo dõi và có giải pháp điều hành chủ động, linh hoạt để hạ nhiệt trong thời gian tới.

Diễn biến dòng vốn đầu tư của khối ngoại

Diễn biến dòng vốn đầu tư của khối ngoại luôn là một yếu tố có tác động mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán thông qua nhiều khía cạnh. Trong năm vừa qua, nhóm nhà đầu tư nước ngoài đã quay sang bán ròng bắt đầu từ quý 2/2023 và có xu hướng gia tăng trong các tháng cuối năm với lũy kế giá trị bán ròng cả năm đạt 600 triệu USD.

Năm 2024, khối ngoại đã bán ròng mạnh liên tiếp kể từ tháng 3 trong bối cảnh dòng tiền đầu tư vào các tài sản tài chính trên quy mô toàn cầu tỏ ra thận trọng trong tháng 4 khi TTCK toàn cầu điều chỉnh mạnh (trừ Trung Quốc và Ấn Độ) và rủi ro về việc Fed sẽ neo mức lãi suất cao trong thời gian dài hơn. Bốn tháng đầu năm 2024, khối ngoại đã bán ròng khoảng 20.000 tỉ đồng trên TTCK Việt Nam. Mặc dù tỷ trọng giao dịch của khối ngoại hiện nay đã giảm nhiều so với các năm trước, nhưng động thái từ khối ngoại vẫn ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý nhà đầu tư. Xu hướng của dòng vốn ngoại hiện đang bị ảnh hưởng bởi xung đột địa chính trị vẫn còn kéo dài và khó dự báo, rủi ro lệch pha chính sách tiền tệ giữa các nước phát triển và đang phát triển sẽ ảnh hưởng và việc nền kinh tế Việt Nam cũng vừa trải qua một giai đoạn khó khăn, Do đó, nhà đầu tư nước ngoài chờ đợi thêm những tín hiệu phục hồi chắc chắn hơn trước khi thực hiện phân bổ vốn.

Diễn biến địa chính trị trên thế giới

Thế giới đa cực hiện tại với sự cạnh tranh địa chiến lược giữa các quốc gia mang lại cả cơ hội và thách thức lớn đối với nền kinh tế có độ mở cao như Việt Nam và qua đó lan tỏa tác động đến TTCK. Năm 2023, địa chính trị trên thế giới tiếp tục có những diễn biến mới bất ngờ với xung đột leo thang ở một số khu vực. Trong bối cảnh chiến dịch quân sự đặc biệt giữa Nga – Ukraine kéo dài, cuộc xung đột giữa Israel – Hamas bùng phát vào đầu tháng 10/2023 đã khiến thế giới tiếp tục rơi vào trạng thái căng thẳng đáng báo động. Việc định tuyến lại các tuyến đường vận chuyển do khủng hoảng leo thang ở Biển Đỏ bắt đầu vào tháng 12/2023 tiếp tục làm trầm trọng thêm vấn đề chi phí, sự chậm trễ và sự phức tạp về an ninh. Trước bùng lên của xung đột địa chính trị, giá cả hàng hóa, đặc biệt là giá dầu chịu áp lực về một làn sóng tăng giá tiếp theo, làm nảy sinh lo ngại về lạm phát tiếp tục kéo dài và có thể bùng phát trở lại bất cứ lúc nào.

Địa chính trị đã trở thành một yếu tố quyết định của thương mại quốc tế. Xu hướng gia tăng chủ nghĩa bảo hộ với số lượng các hạn chế thương mại toàn cầu mới mỗi năm đều tăng đều đặn, từ khoảng 650 hạn chế mới vào năm 2017 lên hơn 3.000 vào năm 2023. Sự phân mảnh của thế giới, xu hướng thay đổi trong toàn cầu hóa với hình thái liên kết kinh tế theo khu vực, khối trở nên phổ biến hơn, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt phải nhanh nhạy thích ứng, chớp các thời cơ. Hơn nữa, trong năm 2024 - năm bầu cử toàn cầu lớn nhất trong lịch sử với hơn 50 quốc gia chiếm hơn 60% GDP toàn cầu diễn ra các cuộc bầu cử sẽ thay đổi chính trường các nước và góp phần tạo nên sự phức tạp về địa chính trị. Do đó, gần hai phần ba số doanh nghiệp tham gia khảo sát đánh giá rằng diễn biến địa chính trị trên thế giới là một yếu tố có khả năng tạo ra những tác động sâu sắc tới TTCK trong năm nay.

Câu chuyện nâng hạng – bước trưởng thành của TTCK Việt Nam

Kể từ tháng 9/2018 – thời điểm Việt Nam có mặt trong danh sách theo dõi nâng hạng của FTSE Russel lên thị trường mới nổi và được MSCI theo dõi xem xét định kỳ, câu chuyện nâng hạng luôn là chủ đề “nóng” được theo dõi sát sao trong các năm qua. Mục tiêu nâng hạng TTCK là một trong những mục tiêu lớn mà Chính phủ hướng tới, được đưa vào Đề án “Cơ cấu lại TTCK và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025” và dự thảo “Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2030”. Với việc FTSE cũng đã có những nhận xét tích cực về nỗ lực của cơ quan quản lý, lãnh đạo Việt Nam cụ thể là quyết tâm của người đứng đầu Chính phủ - trong việc tháo gỡ các nút thắt còn tồn tại để nâng hạng thị trường trong hai báo cáo xếp hạng thị trường mới nhất (tháng 9/2023 và tháng 3/2024), câu chuyện này đã “nóng” hơn bao giờ hết, và là tâm điểm thu hút mọi sự chú ý trên thị trường.

Những lợi ích rõ rệt

Bước trưởng thành của kênh huy động vốn quan trọng này sẽ là minh chứng cho sự ổn định và tiềm năng của nền kinh tế Việt Nam, tạo dựng niềm tin cho các nhà đầu tư, các đối tác quốc tế có quy mô lớn và các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hiện thực hóa mục tiêu sẽ cung cấp nguồn vốn cổ phần gia tăng cho sự phát triển dài hạn của Việt Nam, một nền kinh tế đa dạng, ổn định hơn, và tính thanh khoản tăng cao hơn cho cả thị trường vốn và cổ phiếu. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, TTCK được nâng hạng bởi cả FTSE và MSCI có thể mang lại lên tới 25 tỷ USD vốn đầu tư mới từ các nhà đầu tư quốc tế vào thị trường Việt Nam cho tới năm 2030. Hơn nữa, việc nâng hạng từ “cận biên” lên “mới nổi” được nhận định không chỉ là bước ngoặt quan trọng của TTCK mà còn là một trong những động lực phát triển về lâu dài cho các doanh nghiệp niêm yết.

Kết quả khảo sát của Vietnam Report cho thấy, mức độ quan trọng của việc nâng hạng thị trường được doanh nghiệp đánh giá rất quan trọng với bản thân doanh nghiệp, ở mức 4,3 điểm trên thang điểm 5. Trong đó, ba lợi ích lớn nhất theo quan điểm của doanh nghiệp bao gồm: (1) Nâng cao uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế, (2) Thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài và (3) Tăng thanh khoản cho cổ phiếu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc TTCK được nâng hạng cũng được các doanh nghiệp kỳ vọng sẽ lan tỏa tác động tích cực đến lan tỏa đến các lĩnh vực khác của nền kinh tế cũng như hệ thống quản trị công ty sẽ được thúc đẩy cải thiện và hoạt động minh bạch để đáp ứng các tiêu chuẩn cao hơn.

Nhận định về thời điểm TTCK Việt Nam được FTSE chính thức nâng hạng lên thị trường mới nổi thứ cấp, phần đông doanh nghiệp đại chúng tham gia khảo sát đặt niềm tin rằng năm 2025 sẽ là thời điểm đánh dấu dấu mốc này. Trong đó gần một phần ba số doanh nghiệp tin tưởng vào kịch bản nâng hạng vào nửa đầu năm sau và 44,4% số doanh nghiệp tin tưởng rằng nửa cuối năm 2025 sẽ ghi nhận sự trưởng thành của TTCK Việt Nam, sau khi các nút thắt tồn tại trên thị trường được sớm cởi bỏ trong những tháng còn lại của năm 2024.

Hình 4: Dự báo của các doanh nghiệp đại chúng về thời điểm TTCK được nâng hạng
(theo xếp hạng của FTSE)

Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát doanh nghiệp đại chúng, tháng 4-5/2024

Khai thông các điểm nghẽn

Mặc dù ghi nhận những bước tiến trong việc thoả mãn các điều kiện nâng hạng TTCK, vẫn còn những điểm nghẽn cần sớm khai thông để thu hẹp khoảng cách giữa thực tế và việc hiện thực hóa mục tiêu chiến lược này. Cho tới nay, theo MSCI và FTSE Russell, TTCK Việt Nam vẫn còn những vướng mắc tồn tại liên quan đến công bố thông tin bằng tiếng Anh, thị trường ngoại hối, thủ tục đăng ký đối với nhà đầu tư nước ngoài… Trong đó, điểm nghẽn chính khiến thị trường vẫn chưa chính thức được nâng hạng được cho là nằm ở hai nhóm lý do: (1) Vấn đề yêu cầu ký quỹ trước giao dịch (Pre-funding) và (2) Vấn đề giới hạn sở hữu nước ngoài (Foreign Ownership Limit).

Thứ nhất, về yêu cầu ký quỹ trước giao dịch (Pre-funding) là trở ngại lớn nhất với quá trình nâng hạng thị trường. Trên thế giới hiện nay, hầu hết nhà đầu tư chỉ cần ký quỹ rất ít cho việc đầu tư trên TTCK, đây được xem là một công cụ đòn bẩy cho các nhà đầu tư và góp phần gia tăng thanh khoản cho thị trường. Tuy nhiên, đối với thị trường Việt Nam – vốn đã thiếu một chỉ tiêu quan trọng là tiêu chí thanh toán thất bại (failed trade), sẽ có rủi ro trong bối cảnh nhiều nhà đầu tư không có tính kỷ luật. Vì vậy, để vừa bảo đảm được tiêu chí nâng hạng – gỡ “rào cản” yêu cầu ký quỹ trước giao dịch, tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài, vừa bảo đảm toàn vẹn khả năng chống chịu rủi ro của thị trường, đòi hỏi những cải cách sâu rộng và toàn diện.

Giải pháp toàn diện được đưa ra cho vấn đề này trước hết là áp dụng mô hình Đối tác bù trừ trung tâm (CCP) với sự chấp thuận của NHNN Việt Nam, trong đó cho phép ngân hàng lưu ký đồng thời trở thành thành viên bù trừ. Điều này nhằm gia tăng vai trò của ngân hàng, cùng phối hợp, trao đổi thông tin, với các công ty chứng khoán để xử lý triệt để vấn đề giao dịch không ký quỹ của nhà đầu tư nước ngoài nhằm giảm thiểu thiệt hại tối đa trong tình huống khách hàng không có đủ tiền thanh toán khi đến thời điểm cần thực hiện nghĩa vụ. Đồng thời, tỷ lệ ký quỹ có thể áp dụng trước cho các nhà đầu tư tổ chức theo một rổ danh mục cổ phiếu theo quy định của Ủy ban Chứng khoán, giảm rủi ro cho các công ty chứng khoán, và dần dần sẽ mở ra cho các nhà đầu tư cá nhân khi thị trường áp dụng một thời gian dài và đi vào ổn định. Song song với đó, biện pháp phòng ngừa rủi ro: (1) Nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin giao dịch, tránh xảy ra sai sót, trong đó đẩy mạnh tiến độ đưa hệ thống KRX (hệ thống công nghệ thông tin quản lý và điều hành giao dịch trên TTCK Việt Nam, được HOSE ký kết với Sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc năm 2012) hoạt động chính thức và (2) Tăng chế tài xử phạt để kiểm soát hành vi và tăng tính kỷ luật của nhà đầu tư cũng cần được chú trọng.

Thứ hai, về vấn đề giới hạn sở hữu nước ngoài (Foreign Ownership Limit). Theo Luật Đầu tư và Nghị định 31/2021 của Chính phủ, hiện 25 ngành nghề chưa được tiếp cận thị trường và 59 ngành nghề tiếp cận thị trường có điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài. Sự tồn tại của nhiều ngành nghề kinh doanh được pháp luật điều chỉnh với các điều kiện kinh doanh cụ thể đã tạo ra rào cản, giới hạn tỷ lệ sở hữu cho nhà đầu tư ngoại. Để giải quyết vướng mắc này, Việt Nam sẽ cần thay đổi các quy định với từng ngành nghề, cũng như rà soát lại danh mục những ngành nghề hạn chế tiếp cận thị trường với nhà đầu tư nước ngoài song hoạt động này cũng gặp không ít khó khăn khi tham chiếu do thực tế giấy phép hoạt động của doanh nghiệp hiện có rất nhiều ngành nghề, trong đó mỗi ngành lại có quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài khác nhau. Một giải pháp quan trọng khác được đưa ra là sớm ban hành thông tư hướng dẫn về phát hành Chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết (Non-Voting Depository Receipts - NVDR) cho phép nhà đầu tư ngoại mua cổ phiếu mà không bị hạn chế bởi các quy định về tỷ lệ sở hữu. Sự xuất hiện của chứng chỉ này không chỉ mở rộng cơ hội cho nhà đầu tư nước ngoài, mà còn tăng cường tính thanh khoản và độ mở của TTCK Việt Nam, góp phần vào sự phát triển bền vững và hội nhập quốc tế của thị trường vốn nội địa.

Như vậy, để hiện thực hóa mục tiêu, đòi hỏi những cải cách sâu rộng và toàn diện được đẩy mạnh trong thời gian tới. Mới đây, Bộ Tài chính và UBCKNN đang lấy ý kiến trong việc sửa đổi một số các thông tư trọng yếu bao gồm Thông tư số 96/2020/TT-BTC (hướng dẫn công bố thông tin trên TTCK), Thông tư số 120/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 (uy định giao dịch cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch và chứng chỉ quỹ, TPDN, chứng quyền có bảo đảm niêm yết trên hệ thống giao dịch chứng khoán), Thông tư số 119/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 (quy định hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán), Thông tư số 121/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 (quy định về hoạt động của công ty chứng khoán). Các dự thảo nếu được thông qua sẽ gia tăng thẩm quyền, trách nhiệm cho các công ty chứng khoán trong việc đưa ra quyết định giao dịch ký quỹ không đủ 100% của nhà đầu tư nước ngoài và đưa ra lộ trình cụ thể đối với các thành viên trên thị trường, đặc biệt là công ty đại chúng nhằm đảm bảo sự bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin đối với nhà đầu tư ngoại.

Có thể thấy, cơ quan quản lý đang có những nỗ lực tích cực trong việc chủ động tìm kiếm các giải pháp nhằm tháo gỡ các nút thắt trong phạm vi thẩm quyền, dồn mọi nguồn lực hướng tới đưa TTCK Việt Nam sớm đạt cộc mốc trưởng thành. Theo các doanh nghiệp đại chúng, nền móng tăng trưởng bền vững của TTCK nói chung và bản thân các doanh nghiệp nói riêng không thể thiếu điểm tựa từ các chính sách của Chính phủ. Theo đó, top 4 chính sách cần ưu tiên đã được doanh nghiệp kiến nghị.

Dù hàng lang pháp lý đã đạt được những bước tiến nhất định, việc tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý về TTCK vẫn duy trì vị trí quan trọng hàng đầu trong số các chính sách trọng tâm để hỗ trợ TTCK, với sự đồng thuận của 100% số doanh nghiệp. Giai đoạn tới, đây tiếp tục là yếu tố nền tảng cùng với tăng cường công tác quản lý, giám sát và thanh lọc hoạt động thị trường mang lại sự rõ ràng, minh bạch và ổn định cho TTCK Việt Nam, từ đó thu hút đầu tư và thúc đẩy phát triển bền vững. Mặt khác, tỷ lệ doanh nghiệp kiến nghị hiện đại hóa công nghệ thông tin phục vụ cho hoạt động giao dịch và thanh toán để triển khai các sản phẩm tài chính mới nằm trong số những chính sách ưu tiên hàng đầu đã tăng mạnh từ 45,7% lên 88,9%, phản ánh nhu cầu cấp bách của thị trường đối với việc cải thiện hạ tầng kỹ thuật số nhằm đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng phức tạp và đa dạng.

Hình 5: Top 4 chính sách trọng tâm hỗ trợ TTCK theo kiến nghị của doanh nghiệp đại chúng

Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát doanh nghiệp đại chúng, tháng 4-5/2023-2024

Đáng chú ý, top 4 chính sách cần ưu tiên chú trọng để phát triển TTCK mạnh mẽ hơn năm nay có sự góp mặt của chính sách Nâng cao năng lực cho hệ thống các tổ chức trung gian thị trường. Phát triển, tăng cường năng lực hệ thống các tổ chức trung gian thị trường là một trong các giải pháp mà Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định số 1726/QĐ-TTg ngày 29/12/2023 đề ra. Các tổ chức trung gian đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện giao dịch và thanh toán. Khi năng lực của các tổ chức trung gian được nâng cao, các sản phẩm tài chính mới và công cụ đầu tư phức tạp có thể được triển khai, chất lượng dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư cũng sẽ được cải thiện. Thông qua đó, hiệu quả và độ tin cậy của thị trường cũng sẽ được cải thiện, giảm thiểu rủi ro và tăng cường tính ổn định của thị trường. Điều này không chỉ mở rộng cơ hội đầu tư cho nhà đầu tư mà còn tăng tính cạnh tranh và sức hấp dẫn của TTCK Việt Nam. Để triển khai hiệu quả giải pháp này, đòi hỏi sự quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành của cơ quan quản lý TTCK cùng sự nỗ lực, quyết tâm đổi mới, tái cấu trúc của các tổ chức trung gian thị trường mà cụ thể là các công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ.

Top 5 ngành tiềm năng có nhiều cổ phiếu tăng trưởng tốt nhất trong năm 2024 theo góc nhìn của doanh nghiệp đại chúng

Khi đánh giá cổ phiếu tiềm năng, bốn tiêu chí quan trọng thường được xem xét là (1) Kết quả kinh doanh - phản ánh hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp, (2) Định giá hợp lý - thường tỷ lệ P/E (giá/lợi nhuận) thấp hơn so với mức trung bình ngành hoặc có tỷ lệ P/B (giá/giá trị sổ sách) hấp dẫn, (3) Thu hút dòng tiền - thường đi kèm với tính thanh khoản cao và (4) Có yếu tố vĩ mô hỗ trợ - đảm bảo rằng doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường kinh tế thuận lợi. Ngoài ra, một điểm cần lưu ý là có những thời điểm, giá cổ phiếu phục hồi trước tăng trưởng thực của ngành. Trong năm 2024, mặt bằng giá cổ phiếu đã gia tăng so với năm 2023 trong khi những cổ phiếu hưởng lợi từ chính sách và cổ phiếu có sự thay đổi nội lực trong định giá sẽ được công chúng đón nhận nhiều hơn. Từ góc độ của các doanh nghiệp đại chúng, top 5 nhóm ngành tiềm năng có nhiều cổ phiếu tăng trưởng trong năm nay đã được kể tên.

Hình 6: Top 5 ngành tiềm năng có nhiều cổ phiếu tăng trưởng tốt nhất trong năm 2024

Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát doanh nghiệp đại chúng, tháng 4-5/2023-2024

Với tỷ lệ 88,9% số doanh nghiệp lựa chọn, ngân hàng – trụ cột quan trọng của thị trường đã ghi nhận năm thứ hai liên tiếp nắm giữ vị trí số một trong số các ngành được dự báo có thể ghi nhận nhiều cổ phiếu tăng trưởng nhất. Thực tế, lợi nhuận sau thuế quý 1/2024 của 27 ngân hàng tăng 9,6%, với sự phân hóa rõ rệt về mức sinh lời giữa các ngân hàng. Dù trong các quý tới, ngành này cũng còn nhiều thách thức liên quan đến vấn đề nợ xấu, rủi ro từ lượng TPDN đáo hạn lớn và thị trường bất động sản cần thời gian để giải quyết vấn đề pháp lý còn tồn đọng, nhưng theo đánh giá của nhiều chuyên gia và doanh nghiệp, triển vọng tăng trưởng lợi nhuận của ngành ngân hàng trong năm nay nhìn chung sẽ khả quan hơn năm 2023. Nhận định này dựa trên kỳ vọng về sự hồi phục từ tăng trưởng tín dụng sẽ rõ rệt hơn vào nửa cuối năm trong môi trường lãi suất thấp, nền kinh tế ổn định, khởi sắc hơn năm trước cùng với NIM cải thiện ở mức độ nhẹ. Có thể thấy, từ tháng 3/2024, tín dụng đã đảo chiều sang tăng trưởng dương trở lại và tiếp tục nhích nhẹ trong tháng 4, hỗ trợ thêm cho kỳ vọng này. Sự lạc quan cũng đến từ định giá cổ phiếu ngân hàng vẫn được nhận định ở mức hấp dẫn. Trong khi đó, nhóm ngân hàng – ngành có vốn hóa lớn nhất thị trường vẫn có thể thu hút dòng tiền khi các quỹ lớn vẫn thường nhắm vào những nhóm ngành trọng điểm. Hơn nữa, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 có hiệu lực từ 1/7 năm nay với những sửa đổi hướng tới nâng cao tính minh bạch, giảm thiểu rủi ro và tăng tính ổn định của ngành ngân hàng, được kỳ vọng sẽ thu hút thêm các nhà đầu tư nước ngoài cho thị trường ngân hàng.

Kết quả khảo sát năm 2024 chứng kiến bất động sản đã quay trở lại top những nhóm ngành tiềm năng có nhiều cổ phiếu tăng trưởng nhất theo đánh giá của các doanh nghiệp đại chúng. Dù kết quả kinh doanh trong quý 1 của ngành kém sắc, cổ phiếu của ngành vẫn được đặt kỳ vọng với điểm tựa từ câu chuyện hỗ trợ chính sách. Tâm lý thị trường cải thiện nhờ động lực đến từ ba Luật quan trọng (Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh Bất động sản) đã được Quốc hội thông qua và thậm chí đang được Chính phủ đề xuất có hiệu lực sớm hơn 6 tháng từ ngày 01/7/2024, cùng các thông tư, nghị định góp phần tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp; các chính sách tín dụng dần được nới lỏng, lãi suất cho vay giảm dần thẩm thấu. Nguồn cung và mức hấp thụ của thị trường bất động sản trong năm 2024 được kỳ vọng cải thiện so với năm 2023, khi chủ đầu tư và nhà đầu tư tự tin hơn về sự hồi phục của thị trường và các dự án hạ tầng trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện. Đặc biệt, trọng tâm của kỳ vọng lạc quan về cổ phiếu nhóm ngành này nằm ở bất động sản khu công nghiệp với nguồn cung khu công nghiệp mới được đẩy mạnh mở khóa để đáp ứng nhu cầu tăng cao từ làn sóng FDI thứ 4 chảy vào Việt Nam trong giai đoạn 2024-2025.

Với bán lẻ, động lực chính đến từ triển vọng kinh doanh hấp dẫn và việc hưởng lợi từ nền tảng vĩ mô cải thiện. Ngành đã có tín hiệu thoát đáy với cuộc trở lại “ngoạn mục” về tăng trưởng lợi nhuận trong hai quý gần nhất. Điển hình, lợi nhuận sau thuế quý 1/2024 của ngành bán lẻ đã tăng mạnh 367% so với cùng kỳ, lên mức cao nhất trong 6 quý. Trong những tháng tiếp theo, lợi nhuận có thể tiếp tục phục hồi từ mức nền thấp năm 2023 khi vấn đề áp lực hàng tồn kho tại dần được khắc phục và sức mua được kỳ vọng cải thiện.

Ngoài ra, top 5 ngành tiềm năng có nhiều cổ phiếu tăng trưởng tốt nhất trong năm 2023 còn có sự góp mặt của ngành công nghệ thông tin với triển vọng vững chắc về nhu cầu chi tiêu công nghệ tăng lên trong xu thế chung của cả thế giới và ngành dầu khí trong bối cảnh giá dầu ở mức cao khi nguồn cung toàn cầu thắt chặt, cùng động lực chính từ Chuỗi dự án Lô B - Ô Môn và các dự án dầu khí lớn Lạc Đà Vàng, Cá Voi Xanh được kỳ vọng được đẩy nhanh tiến độ. Đặc biệt, hoạt động thăm dò và khai thác sôi động hơn sẽ củng cố triển vọng tăng trưởng của các công ty thượng nguồn.

Khía cạnh truyền thông của doanh nghiệp đại chúng

Dữ liệu phân tích Media Coding trong giai đoạn từ tháng 4/2023 đến tháng 3/2024 của Vietnam Report cho biết 5 nhóm chủ đề xuất hiện nhiều nhất trên truyền thông của các doanh nghiệp đại chúng trong nghiên cứu vẫn giữ nguyên như năm trước và chỉ thay đổi về tỷ lệ xuất hiện, bao gồm: (1) Cổ phiếu; (2) Tài chính/ Kết quả kinh doanh; (3) Hình ảnh/PR/Scandals; (4) Sản phẩm và (5) Quản trị. Bên cạnh đó, dữ liệu còn cho biết 5 nhóm ngành được quan tâm nhiều trên truyền thông, bao gồm: Ngân hàng, Bất động sản, Bán lẻ, Thực phẩm và Chứng khoán.

Hình 7: Top 5 nhóm chủ đề xuất hiện nhiều nhất trên truyền thông

Nguồn: Vietnam Report, Dữ liệu Media Coding doanh nghiệp đại chúng tại Việt Nam từ tháng 4/2021 đến tháng 3/2024

Doanh nghiệp được đánh giá là “an toàn” về chất lượng thông tin trên truyền thông khi đạt tỷ lệ chênh lệch thông tin tích cực và tiêu cực so với tổng lượng thông tin được mã hóa ở mức 10%, ngưỡng “tốt nhất” là trên 20%. Tỷ lệ doanh nghiệp trong nghiên cứu của Vietnam Report năm nay đạt được tiếp tục giảm, ghi nhận 62,7% doanh nghiệp đạt ngưỡng “an toàn”, tỷ lệ doanh nghiệp đạt ngưỡng “tốt nhất” là 48,2%; trong khi năm 2023 và 2022, tỷ lệ này lần lượt là 67,4% và 87,8% của ngưỡng “an toàn”, 54,7% và 79,3% của ngưỡng “tốt nhất”. Chất lượng thông tin trên truyền thông theo tháng theo đó có xu hướng giảm; trong đó, vào tháng 4-5/2023 và tháng 3/2024, chênh lệch tỷ lệ tin tích cực và tiêu cực sụt giảm nghiêm trọng (dưới 15,0%). Đây là thời điểm các doanh nghiệp công bố kết quả kinh doanh không mấy khả quan và những diễn biến liên quan đến bảo mật, sai phạm của nhân viên trong doanh nghiệp.

Nhìn chung, với những thay đổi, cải cách đang từng bước được thực hiện, TTCK được kỳ vọng sẽ tiếp tục mạnh mẽ hơn trong năm nay cùng với sự phục hồi và ổn định hơn của một số nhóm ngành, song vẫn sẽ chứng kiến sự giao tranh, đan xen giữa các nhịp điều chỉnh và phục hồi do ảnh hưởng của các biến số vĩ mô được đề cập bên trên. Nếu như đối với nền kinh tế nói chung, năm 2024 được kỳ vọng là “vùng đệm” để từng bước khôi phục niềm tin, các doanh nghiệp dần chinh phục các thách thức, những động lực dẫn dắt sự phục hồi rõ ràng hơn thì đối với TTCK, 2024 cũng là bước đệm quan trọng trên hành trình nâng hạng thị trường, hướng tới một thị trường ngày càng minh bạch, hấp dẫn, phát triển lành mạnh, công bằng và kiến thiết một chu kỳ tăng điểm ấn tượng trong tương lai.

     
  

Bảng xếp hạng Top 50 Công ty Đại chúng uy tín và hiệu quả năm 2024 là kết quả nghiên cứu độc lập và khách quan của Vietnam Report. Kế thừa thành quả nghiên cứu từ bảng xếp hạng top 10 Doanh nghiệp niêm yết uy tín đã được công bố thường niên từ năm 2016, dựa trên phương pháp Media Coding (mã hóa dữ liệu báo chí) trên truyền thông, kết hợp nghiên cứu chuyên sâu các ngành trọng điểm, có tiềm năng tăng trưởng cao như: Bất động sản – Xây dựng, Ngân hàng, Bảo hiểm, Dược, Thực phẩm – Đồ uống, Bán lẻ, Du lịch, Logistics...

Phương pháp nghiên cứu phân tích truyền thông để đánh giá uy tín của các công ty dựa trên học thuyết Agenda Setting của 2 giáo sư Maxwell McCombs và Donald L. Shaw về sự ảnh hưởng, tác động của truyền thông đại chúng đến cộng đồng và xã hội, được Vietnam Report và các đối tác hiện thực hóa và áp dụng từ năm 2012. Theo đó, Vietnam Report đã sử dụng phương pháp Branch Coding (đánh giá hình ảnh của công ty trên truyền thông) để tiến hành phân tích uy tín của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam.

Vietnam Report tiến hành mã hóa (coding) các bài báo viết về các doanh nghiệp được đăng tải trên các trang báo có ảnh hưởng tại Việt Nam trong thời gian từ tháng 04/2023 đến tháng 03/2024, đánh giá ở cấp độ câu chuyện (story – level) về 24 khía cạnh hoạt động cụ thể của các công ty từ sản phẩm, kết quả kinh doanh, thị trường... tới các hoạt động và uy tín của lãnh đạo công ty. Các thông tin được lựa chọn để mã hóa (coding) dựa trên 2 nguyên tắc cơ bản: Tên công ty xuất hiện ngay trên tiêu đề của bài báo, hoặc tin tức về công ty được đề cập tối thiểu chiếm 5 dòng trong bài báo, đây được gọi là ngưỡng nhận thức – khi thông tin được đánh giá là có giá trị phân tích. Các thông tin được đánh giá ở các cấp độ: 0: Trung lập; 1: Tích cực; 2: Khá tích cực; 3: Không rõ ràng; 4: Khá tiêu cực; 5: Tiêu cực. Tuy nhiên, thống kê lại, nhóm nghiên cứu đưa ra 3 cấp bậc để đánh giá cuối cùng, bao gồm: Trung lập (gồm 0 và 3), tích cực (1 và 2), và tiêu cực (4 và 5).

Những nhận định trong thông cáo mang tính tổng quát và tham khảo cho các doanh nghiệp, đối tác; không phải nhận định cá nhân và không phục vụ mục đích hay nhu cầu của bất cứ nhà đầu tư cụ thể nào. Do đó, các bên liên quan nên cân nhắc kỹ tính phù hợp của các thông tin trên trước khi sử dụng để đưa ra quyết định đầu tư và hoàn toàn chịu trách nhiệm trong việc sử dụng các thông tin đó.

Lễ công bố Top 50 Công ty Đại chúng uy tín và hiệu quả năm 2024 dự kiến diễn ra vào tháng 8/2024 tại Thành phố Hà Nội.

Website: www.top50vietnam.net

  
     

 

 

Vietnam Report

 

 

  




;

Văn bản gốc


;